Sỏi thận là bệnh phổ biến nhất trong hệ tiết niệu. Vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm như Việt Nam có tỷ lệ mắc sỏi cao. Khoảng 10-14% dân số Việt Nam bị sỏi thận. Ở Mỹ, 7-10% dân số từng mắc sỏi thận nhưng không hề hay biết. Tỉ lệ mắc bệnh sỏi thận trên toàn thế giới khoảng 3% dân số và khác nhau tùy quốc gia.
Sỏi thận là gì?
Sỏi thận là bệnh phổ biến ở nam giới trung niên. Thường xảy ra ở người từ 30 – 55 tuổi (1). Nam giới có cấu trúc đường tiết niệu phức tạp hơn nên sỏi thường khó tự đào thải như ở nữ giới.
Sỏi tiết niệu là những tinh thể chất rắn được hình thành do quá trình kết tinh tự nhiên của các tinh thể vô cơ trong nước tiểu. Chúng có thể gây đau, buồn nôn, nôn, tiểu có máu và có thể gây sốt, rét run do nhiễm trùng thứ phát. Hầu hết sỏi bắt đầu hình thành từ thận, di chuyển dọc theo hệ tiết niệu và được bài tiết ra ngoài, vì vậy nhiều người gọi là sỏi thận.
Khi hệ tiết niệu bắt đầu có hiện tượng lắng và tạo những tinh thể và viên sỏi nhỏ, chúng thường đi qua đường tiểu và được bài tiết ra ngoài. Tại một vị trí nào đó trên hệ tiết niệu, tinh thể hoặc viên sỏi bị vướng lại, tiếp tục lắng và tạo thành những viên sỏi lớn hơn.
Tại vị trí này, sỏi ngày càng lớn, có thể gây tắc nghẽn dòng chảy của nước tiểu, gây ứ đọng nước tiểu và làm căng phình phần trên vị trí bị tắc nghẽn. Ở vị trí này, có thể xảy ra nhiều biến chứng như nhiễm trùng, kết tinh và hình thành các loại sỏi khác… làm từ từ phá hủy cấu trúc của thận.
Dựa vào vị trí của viên sỏi trên hệ tiết niệu, người ta có thể gọi hoặc phân loại sỏi như sau:
- Sỏi thận ở thận, bao gồm sỏi đài thận và sỏi bể thận.
- Sỏi niệu quản: do sỏi từ bể thận di chuyển xuống niệu quản và gây tắc nghẽn đường tiết niệu.
- Sỏi bàng quang: 80% sỏi này là do từ thận, niệu quản rớt xuống hoặc do bị tắc nghẽn vùng cổ bàng quang, niệu đạo.
- Sỏi niệu đạo: khi sỏi theo dòng nước tiểu từ bàng quang xuống niệu đạo, bị mắc kẹt tại đây.
Các loại sỏi thận
Sỏi trong hệ tiết niệu thường được phân loại dựa trên thành phần hóa học (2), bao gồm:
- Sỏi canxi: là loại sỏi thường gặp nhất, chiếm 80-90%, bao gồm sỏi Calci Oxalat và Calci Phosphat. Sỏi Calci Oxalat chiếm tỷ lệ cao ở các nước nhiệt đới như Việt Nam. Sỏi này cứng và gây cản quang, có hình dáng gồ ghề, màu vàng hoặc màu nâu.
- Sỏi phosphat: thường gặp là loại Magnésium Ammonium Phosphate hay còn gọi là sỏi nhiễm trùng, thường do nhiễm trùng niệu lâu ngày gây ra, đặc biệt là do vi khuẩn proteus. Sỏi có màu vàng và hơi bở. Loại sỏi này thường lớn và có thể lấp kín các đài bể thận, gây ra sỏi san hô.
- Sỏi acid uric: hình thành do quá trình chuyển hoá chất purine tăng trong cơ thể. Các nguyên nhân có thể là sử dụng nhiều thức ăn chứa nhiều chất purine (như lòng heo, lòng bò, thịt cá khô, nấm…), bị bệnh gout, hoặc sỏi hình thành do phân hủy các khối ung thư khi dùng thuốc hóa trị liệu.
- Sỏi cystine: hình thành do quá trình tái hấp thụ chất cystine bị sai sót ở ống thận. Sỏi này ít gặp ở Việt Nam. Sỏi cystine không cản quang, có bề mặt trơn láng.
Biểu hiện của bệnh sỏi thận
Triệu chứng của bệnh sỏi thận chủ yếu do biến chứng của viên sỏi gây ra trong hệ tiết niệu, chứ không phải do sỏi gây ra (3).
Cơn đau quặn thận
Triệu chứng rõ ràng nhất khi thận có sỏi là cơn đau dữ dội, người ta gọi “cơn đau bão thận” hoặc “cơn đau quặn thận”.
Sỏi gây đau ở vùng hố thắt lưng một bên, lan ra phía trước và xuống dưới. Cơn đau xuất hiện đột ngột sau khi có hoạt động gắng sức. Sau đó, cường độ đau tăng lên. Người bị đau quằn quại, vật vã để tìm tư thế giảm đau nhưng không hiệu quả.
Khi gặp triệu chứng này, người bệnh cần đến cơ sở y tế, bệnh viện để bác sĩ giảm cơn đau do sỏi thận, không tự ý tự điều trị tại nhà.
Có thể phân biệt hai trường hợp cơn đau sỏi thận
- Cơn đau do sỏi ở thận do tắc nghẽn bể thận và đài thận: Cơn đau xuất hiện ở hố thắt lưng, dưới xương sườn 12, đau lan về phía trước hướng về rốn và hố chậu.
- Cơn đau sỏi niệu quản: xuất phát từ hố của thắt lưng lan dọc xuống dưới theo đường niệu quản, đến hố chậu bộ phận sinh dục, mặt trong của đùi.
Triệu chứng đi kèm cơn đau sỏi thận có thể là buồn nôn, nôn mửa, chướng bụng do liệt ruột. Bệnh nhân có thể bị sốt, rét run nếu có nhiễm trùng tiết niệu kết hợp. Khi bác sĩ khám, có thể thấy điểm sườn lưng đau. Các điểm niệu quản bị ấn cũng có cảm giác đau và thấy được thận phì to.
Kích thước hoặc số lượng viên sỏi không liên quan đến sự xuất hiện và cường độ đau của cơn đau quặn thận. Một số trường hợp như sỏi thể yên lặng, người bệnh hoàn toàn không có triệu chứng đau hoặc có triệu chứng đau không rõ ràng như ê ẩm vùng thắt lưng một hoặc hai bên…
Tiểu có máu
Trường hợp sỏi có bề mặt nhám, gai san hô…khi tiếp xúc với đường tiểu gây ra tiểu có máu. Bình thường, sỏi thận không gây ra hiện tượng này. Tuy nhiên, nếu hoạt động nhiều hoặc vận động mạnh có thể gây ra tiểu có máu.
Bế, tắc đường tiểu
Đường tiểu giống như ống nước, viên sỏi xuất hiện sẽ gây tắc nghẽn, bế tắc. Bao gồm tiểu cùng, tắc nghẽn thận và thận nứt. Vì các triệu chứng này tương tự với nhiều bệnh khác, nên cần thăm khám với bác sĩ chuyên môn để phân tích nguyên nhân và chẩn đoán.
Nguyên nhân gây bệnh sỏi thận
Có nhiều nguyên nhân gây ra sỏi thận, bắt đầu từ quá trình kết tinh và lắng đọng tinh thể trong hệ tiết niệu. Theo chuyên gia, sỏi tiết niệu hình thành có thể do nước tiểu có chứa quá nhiều hóa chất, điển hình là canxi, acid uric, cystine… 85% sỏi hình thành bắt đầu từ sự lắng đọng canxi.
Các nguyên nhân cụ thể được chỉ ra bao gồm:
- Uống không đủ nước: Cơ thể không có đủ nước để thận tiết nước tiểu, làm cho nước tiểu quá đặc. Nồng độ các tinh thể bị bão hòa trong nước tiểu.
- Chế độ ăn nhiều muối: Đây là nguyên nhân phổ biến ở người Việt, khẩu vị của người Việt khá mặn. Muối và nước mắm là gia vị quen thuộc hàng ngày… Ăn nhiều muối (NaCl), cơ thể phải gia tăng đào thải Na+, gia tăng Ca++ ở ống thận… Do đó, sỏi canxi dễ hình thành.
- Chế độ ăn nhiều đạm: Đạm trong thực phẩm làm tăng nồng độ pH nước tiểu, tăng bài tiết canxi và làm giảm khả năng hấp thu citrate.
- Nạp bổ sung canxi, vitamin C sai cách: Việc bổ sung quá nhiều vitamin và khoáng chất có thể gây thừa chúng trong cơ thể. Khi chuyển hóa vitamin C thành acid oxalic, ion canxi cạnh tranh và ức chế sự hấp thu các ion khác như kẽm, sắt… Khi thận quá tải các chất này, tỷ lệ mắc bệnh sỏi tăng.
- Hậu quả của bệnh lý đường tiêu hóa như viêm loét dạ dày, tiêu chảy… cũng có thể tạo ra sỏi canxi oxalate. Tiêu chảy gây mất nước, mất các ion Na+, K+,… giảm lượng nước tiểu; tăng nồng độ oxalat trong nước tiểu,… từ đó dễ hình thành sỏi.
- Yếu tố di truyền: Bệnh cũng có thể do di truyền trong gia đình. Nguy cơ mắc bệnh trong các thành viên cùng huyết thống cao hơn so với bình thường.
- Người bẩm sinh hoặc mắc các vấn đề về đường tiết niệu, làm cho đường tiểu bị tắc nghẽn ví dụ như phì đại tuyến tiền liệt, túi thừa trong bàng quang, u xơ tiền liệt tuyến…. Một số bệnh nhân chấn thương, không di chuyển được một thời gian dài. Đường tiết niệu bị tắc nghẽn làm nước tiểu tích tụ lâu ngày, lắng đọng tạo ra sỏi thận.
- Nhiễm trùng đường tiết niệu: Vi khuẩn xâm nhập, gây viêm đường tiết niệu kéo dài, tạo ra mủ, lắng đọng các chất bài tiết lâu ngày cũng là nguyên nhân gây sỏi thận
- Béo phì: Theo nghiên cứu, nguy cơ mắc bệnh sỏi thận của người béo phì cao hơn so với người bình thường.
Bệnh sỏi thận có nguy hiểm không?
Khi sỏi bị vướng lại trong đường tiết niệu, nó sẽ ảnh hưởng đến dòng chảy của đường tiết niệu qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn chống đối
Giai đoạn này, phần trên của đường tiết niệu bị vướng sỏi sẽ co bóp để đẩy viên sỏi ra ngoài. Niệu quản và bể thận phía trên vẫn chưa bị giãn nở. Áp lực đại thận tăng đột ngột gây cơn đau quặn thận. Triệu chứng điển hình giai đoạn này là những cơn đau bão thận.
Giai đoạn giãn nở
Giai đoạn này là kết quả của giai đoạn chống đối. Sau 3 tháng mà không thể đẩy được sỏi ra ngoài, niệu quản, bể thận và đài thận phía trên vị trí tắc sẽ giãn nở. Nhu động niệu quản bị giảm.
Giai đoạn biến chứng
Viên sỏi bị kẹt không di chuyển được do bám vào niêm mạc. Niệu quản bị sến dày, có thể bị hẹp lại. Trong giai đoạn này, chức năng thận dần suy giảm. Thận bị ứ nước. Và nếu có nhiễm trùng sẽ có tình trạng ứ mủ.
Sỏi vẫn tồn tại trong đường tiết niệu, là một yếu tố thuận lợi cho việc tái nhiễm trùng. Khi tồn tại lâu ngày, có thể gây viêm thận, bể thận mạn tính và dẫn đến suy thận mạn tính.
Xét nghiệm – Chẩn đoán sỏi thận
Để chẩn đoán bệnh sỏi thận một cách chính xác và đưa ra phác đồ điều trị hiệu quả, bệnh nhân cần thực hiện nhiều xét nghiệm cận lâm sàng (4). Đó là:
Siêu âm
Khi nghi ngờ có sỏi trong thận, phương pháp chẩn đoán đầu tiên được sử dụng là siêu âm, bởi nó hiệu quả, đơn giản và ít tốn kém. Khi siêu âm, bác sĩ có thể phát hiện sỏi và đánh giá độ ứ nước của thận, niệu quản và độ dày của vỏ thận.
Một số trường hợp phát hiện sỏi ngẫu nhiên khi siêu âm vì một lý do khác hoặc trong cuộc khám tổng quát định kỳ.
Xét nghiệm nước tiểu
Đây là xét nghiệm cần thiết trong chẩn đoán sỏi thận. Từ kết quả xét nghiệm này, có thể suy luận nhiều về tình trạng bệnh – giai đoạn và biến chứng, đặc biệt là nhiễm trùng đường tiết niệu.
Soi cặn lắng
Xét nghiệm này cho phép xác định loại sỏi đang tồn tại và hình thành trong hệ tiết niệu.
pH nước tiểu
Vi khuẩn phân giải ure thành Ammoniac nên khi pH > 6,5 có thể suy luận là nhiễm trùng đường tiểu.
Protein niệu
Nếu có nhiều protein niệu, bác sĩ phải xem lại các bệnh lý cầu thận vì nếu chỉ nhiễm trùng niệu thì nồng độ protein niệu rất ít.
Tìm tế bào và vi khuẩn
Trong xét nghiệm nước tiểu, phát hiện nhiều hồng cầu, bạch cầu. Nếu nghi ngờ sỏi thận có nhiễm trùng biến chứng, có thể nhìn thấy vi khuẩn trong nước tiểu khi quay ly tâm, soi và nhuộm Gram.
ASP – Chụp X-quang bụng không chuẩn bị
Do sỏi can quang thường gặp ở Việt Nam, chụp X-quang có giá trị trong chẩn đoán. Phương pháp này giúp xác định vị trí sỏi can quang, số lượng và hình dáng của sỏi.
UIV – Chụp hệ tiết niệu qua đường tĩnh mạch
Chụp UIV cho biết hình dáng của thận, bể thận, niệu quản; vị trí của sỏi trong hệ tiết niệu; Mức độ giãn nở của bể thận, niệu quản. Từ đó, có thể xác định chức năng bài tiết chất can quang của từng bên thận.
Chụp X quang niệu quản thận ngược dòng và xuôi dòng
Phương pháp này được sử dụng để phát hiện sỏi không can quang, đặc biệt trong trường hợp thận câm trên phim chụp UIV.
Nội soi bàng quang
Phương pháp này ít được sử dụng để chẩn đoán, nhưng thường được sử dụng trong phẫu thuật nội soi để lấy sỏi.
Điều trị căn bệnh sỏi thận
Điều trị nội khoa giảm cơn đau quặn thận do sỏi
- Giảm lượng nước uống khi cơn đau quặn thận xảy ra
- Giảm đau: Sử dụng thuốc kháng viêm không steroid, tiêm tĩnh mạch Diclofenac (Voltarene ống 75mg). Một số trường hợp không có hiệu quả, có thể sử dụng Morphin.
- Thuốc giãn cơ trơn: Tiêm tĩnh mạch Buscopan, Drotaverin,…
- Kháng sinh: Sử dụng kháng sinh nếu có dấu hiệu nhiễm trùng. Thường sử dụng Cephalosporin thế hệ 3, Quinolone và các Aminoside. Trong trường hợp bệnh nhân suy thận, liều lượng sử dụng kháng sinh cần điều chỉnh để tránh sử dụng Aminoside.
- Xử lý nguyên nhân gây tắc nghẽn niệu quản (sỏi, dị dạng đường niệu gây ứ nước). Trường hợp điều trị nội khoa không giảm cơn đau quặn thận, bác sĩ sẽ quyết định phẫu thuật để khắc phục tắc nghẽn. Phương pháp phẫu thuật dựa trên cơ địa bệnh nhân, số lượng và kích thước sỏi, tình trạng chức năng thận từng bên… có thể là dẫn lưu tối thiểu bể thận qua da hoặc phẫu thuật cấp cứu.
* Lưu ý khi điều trị sỏi bằng nội khoa
- Đối với sỏi nhỏ và trơn láng: Có thể tăng lượng nước tiểu bằng thuốc lợi tiểu và uống nhiều nước… Viên sỏi có thể tự nhiên bị đẩy ra ngoài qua nhu động niệu quản. Sử dụng thêm thuốc chống viêm không steroid để ngăn ngừa viêm niệu quản và không cản trở di chuyển viên sỏi.
- Đối với sỏi acid uric – sỏi không can quang: thường gặp ở các nước phát triển. Sỏi này tạo thành trong môi trường nước tiểu có pH < 6 và có thể tan khi kiềm hóa. Do đó, có thể điều trị bằng cách:
- Uống nhiều nước trên 2 lít mỗi ngày, kiêng rượu bia và chất kích thích. Chế độ ăn cần giảm lượng đạm.
- Làm kiềm hóa nước tiểu bằng natri bicarbonate 5-10g/ngày. Ức chế purine bằng Allopurinol 100-300mg/ngày. Cần lưu ý rằng thuốc có thể gây tác dụng phụ như buồn nôn, tiêu chảy, ngứa, nổi mẩn da, suy chức năng gan. Nên uống thuốc sau khi ăn.
Điều trị nội khoa sau phẫu thuật lấy sỏi
- Giảm đau: Sử dụng thuốc giảm đau sau phẫu thuật.
- Kháng sinh: Sử dụng kháng sinh để ngăn ngừa nhiễm trùng sau phẫu thuật.
- Thuốc giãn cơ: Sử dụng thuốc giãn cơ để làm dịu triệu chứng.
- Tiểu nhiều: Uống nhiều nước để tạo điều kiện tự thải sỏi qua đường tiểu.
Điều trị ngoại khoa
Kiểu phẫu thuật điều trị sỏi thận sẽ được quyết định bởi viên sỏi, vị trí và giai đoạn bệnh để đạt hiệu quả tốt nhất và tiết kiệm chi phí.
- Viên sỏi đã rơi xuống niệu quản gần bàng quang có thể dùng nội soi bán cứng và tia laser để phá vỡ sỏi, sau đó lôi ra.
- Viên sỏi ở trên cao có thể dùng nội soi ống mềm. Bác sĩ sẽ sử dụng ống mềm để tiếp cận sỏi qua đường niệu quản.
- Viên sỏi ở vị trí trung thận có thể phá sỏi qua da bằng máy tán sỏi, tạo một l