Sự Thâm Nhập Của Từ Vựng Toàn Dân Và Từ Ngữ Địa Phương
Trong quá trình thâm nhập và lan toả, từ vựng của ngôn ngữ toàn dân và từ ngữ địa phương không thể tránh khỏi sự tương tác và thay đổi. Khu vực Nam Bộ là một trong những nơi có sự phát triển kinh tế và văn hóa nổi bật ở Việt Nam. Đồng thời, địa phương này cũng có một phương ngữ địa lý đặc trưng. Do đó, từ ngữ của phương ngữ Nam Bộ đã góp phần đáng kể vào việc làm phong phú từ vựng chung của cả nước. Thông thường, hầu hết các từ ngữ Nam Bộ khi thâm nhập vào vốn từ vựng toàn dân vẫn giữ nguyên ý nghĩa và cách sử dụng. Ví dụ như “bột giặt,” “bột ngọt,” “kem kí,” “nhậu,”…
Tuy nhiên, cũng có một số từ ngữ khi tham gia vào vốn từ vựng chung đã có sự thay đổi về ý nghĩa hoặc một nghĩa mới nào đó. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về các từ “bồ,” “bịch,” và “bồ bịch.”
1. Bồ
Theo các từ điển được xuất bản trước năm 1975, đặc biệt là các từ điển ở miền Nam như “Tự điển Việt Nam phổ thông” của Đào Văn Tập (Nhà sách Vĩnh Bảo – Sài Gòn, 1952), “Tự điển Việt Nam” của Lê Văn Đức (Nhà sách Khai Trí – Sài Gòn, 1970), “Từ điển Việt Nam” của Thanh Nghị (Thời thế),.. chúng ta có thể thấy từ “bồ” là một từ đến từ phương ngữ Nam Bộ, có các nghĩa sau:
- Người bạn thân thiết.
- Người cùng phe trong một cuộc chơi hay trong một đám bạc.
Trước đây, từ này hầu như không được sử dụng ở miền Bắc. Tuy nhiên, sau năm 1975, từ này dần trở nên phổ biến trong ngôn ngữ toàn dân. Hiện tại, nghĩa thứ hai ít được sử dụng, trong khi nghĩa thứ nhất thường chỉ dùng trong cách xưng gọi để chỉ sự thân thiết và mang đậm dấu ấn địa phương. Ví dụ:
- “Vậy thì bồ kí cho qua một chữ vào đây” (QĐND 12-4-1981)
- “Bồ không biết chữ thì điểm chỉ cũng được. Qua đọc cho bồ nghe người ta ghi gì trong tờ cam đoan này nhé!” (QĐND 25-1-1980)
- “Bồ ơi, tôi đố bồ biết bọn bụi đời hoạt động ở đâu?” (Đại đoàn kết 39-1979)
- “Bồ tính giùm thử xem có bao nhiêu khoản chi: mua tầu thuỷ, xăng, nhớt, mua lương thực, thuốc men nè…” (QĐND 9-4-1981)
- “Để coi – anh Năm nhẩm tính, ngay bữa kia, trễ thì ngày bữa kia, tôi trở về cầu ngang, từ nay tới đó mấy ông bàn kĩ, lên kế hoạch chi tiết, tính vốn, giống, lao động (…). Có khó khăn gì, các ông nói hết. – Tính cho kĩ nghe bồ! – Ba Công cười.” (CATPHCM, 29-10-1998 tr.11)
Như vậy, từ “bồ” đã xuất hiện với ý nghĩa “nhân tình, người yêu.” Hiện nay, nghĩa này được sử dụng rộng rãi và phổ biến cả ở miền Bắc lẫn miền Nam. Mặc dù trong vốn từ vựng toàn dân đã có hai từ “nhân tình” và “người yêu,” từ “bồ” vẫn được chấp nhận và thường được sử dụng hơn bởi sức gợi tả, súc tích và khả năng tạo ấn tượng mạnh mẽ của nó. Cùng với đó, ý nghĩa “nhân tình hoặc người yêu” hiện nay đã trở thành cách dùng phổ biến ở cả miền Nam, làm mờ đi ý nghĩa “người bạn thân thiết” gốc của nó, nên hiếm ai nghĩ đó là từ địa phương miền Nam. Ví dụ:
- “Hiệp, tuổi gần 50, có 3 chiếc xe 12-15 chỗ ngồi chạy kinh doanh thường ghé qua khách sạn G.N đón khách qua đó quen và cặp bồ với Tuyết Nhung – đang có một con gái nhưng không chồng.” (CATPHCM, 29-5-1999, tr.6)
- “Do đã lỡ hẹn với Năm già nên khi nghe thấy tiếng gõ cửa đúng tín hiệu, bất đắc dĩ hắn lấy mền trùm lên cô bồ rồi vội vã mặc đồ ra mở cửa. Nhưng hắn bàng hoàng, trước mặt hắn không phải là Năm già mà là các chiến sĩ công an.” (CATPHCM, 28-8-1999, tr.4)
- “Khoảng một năm trở lại đây chồng tôi có bồ, đã về nhà đánh đập, đòi bỏ tôi.” (PNVNam, 1-12-1981, tr.6)
- “Em lại đã có “bồ”. Anh ấy dễ thương lắm.” (PNVNam, 14-201978, tr.4)
- “Thưa tiểu thư, hẳn tiểu thư đang chờ “bồ” (người yêu)?” (Bên những dòng sông, tr.54)
Ngoài ra, trong tiếng Việt chung (bao gồm cả miền Bắc và miền Nam), từ “bồ” còn có một nghĩa khác, đồng âm nhưng nghĩa là “đồ đựng đan bằng tre, nứa, có thành cao, miệng tròn, rộng gần bằng đáy” (Từ điển Việt (Hoàng Phê chủ biên), Viện Ngôn ngữ học).
2. Bồ Bịch
Theo Từ điển tiếng Việt của Lê Văn Đức, từ “bồ bịch” trong tiếng Nam Bộ có hai nghĩa:
- Bồ rất thân với mình, như tay mặt tay trái. Ví dụ: “Bồ bịch của tôi đa!”
- Tức bồ (dùng khi nhấn mạnh). Ví dụ: “Bồ bịch đầy nhóc còn than; Bởi anh chăm việc canh nông, Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài.”
Như vậy, tương tự như từ “bồ,” “bồ bịch” với nghĩa “nhân tình, người yêu (nói khái quát)” trước đây không có trong phương ngữ Bắc, mà được mượn từ phương ngữ Nam. Điều đặc biệt là, từ “bồ bịch” với nghĩa “nhân tình, bạn tình (dùng với nghĩa khái quát)” cũng không có trong tiếng Nam Bộ xưa. Nó chỉ có nghĩa là “bạn thân” gốc. Hiện nay, ý nghĩa “nhân tình, bạn tình” của từ “bồ bịch” đã trở thành cách dùng phổ biến cả ở miền Bắc và miền Nam. Ví dụ:
- “Nhưng vợ con không lao động, các anh rượu chè be bét, bồ bịch lăng nhăng nên có đồng nào là đánh sạch đồng đó.” (VNghệ 47/1982, tr.9)
- “Thêm một việc làm thiếu nghiêm túc tại chốn trang nghiêm này, là có mấy cặp cô cậu không rõ là bồ bịch gì đó, đã ôm nhau thoải mái, có cặp lại ‘vô tư’ tới mức ôm chặt lấy nhau và ‘cắn’ vào miệng nhau, cứ như là đang ở công viên bến Bạch Đằng.” (Hái lộc đầu năm, CATPHCM, 7-2-1998, tr.6)
- “Chị có ông xã hết ý. Bọn em sau này chán lắm. Chồng bây giờ hở một chút là bia ôm, hở một chút là ngoại tình, bồ bịch.” (Hưu chờ, tr.68)
- “Cô vợ trẻ đá thúng đụng nia, công khai bồ bịch, hẹn hò…” (Đại đoàn kết, số 216)
- “Trước đây số bé gái bị bắt hầu hết chỉ có quan hệ bồ bịch với các đại ca, hiếm khi có liên quan tới các vụ án.” (CATPHCM, 11-3-1999, tr.29)
Đồng thời, trong từ vựng chung cũng có một từ “bồ bịch 2,” với nghĩa “bồ, bịch và những đồ đựng thóc gạo tương tự, đan bằng tre nứa (nói khái quát)” (Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Viện Ngôn ngữ học).
Sự Biến Đổi Nghĩa Của “Bồ” Và “Bồ Bịch”
Với ý nghĩa “nhân tình, người yêu,” từ “bồ” đã trở thành một phần của ngôn ngữ chung trong tiếng Việt. Điều này có thể giải thích bằng sự thay đổi và ảnh hưởng lẫn nhau của các từ ngữ từ phương ngữ vào ngôn ngữ chung. Đồng thời, nghĩa thứ nhất của từ “bồ” (bạn) và “bồ bịch” (bạn bè) hầu như không được sử dụng ở các vùng phía Bắc. Sự biến đổi nghĩa này sử dụng cả hiện tượng đồng âm và áp lực hệ thống của ngôn ngữ.
Có thể giải thích rằng, từ “bồ” và “bồ bịch” ban đầu không có nghĩa “nhân tình, bạn tình” như hiện tại. Có thể nói phương ngữ Bắc đã mượn từ phương ngữ Nam và sử dụng nó với ý nghĩa khác chút ít. Sau đó, từ này trở lại với phương ngữ Nam và mang theo nghĩa thay đổi, làm phong phú thêm cho chính nó. Có thể hình dung sự thay đổi nghĩa này như sau:
- “Bồ” (nghĩa là “bạn”, thường được dùng để xưng gọi thân mật) được mở rộng nghĩa, có thêm nghĩa mới là “người yêu, người tình.”
- “Bồ bịch” (nghĩa là bạn bè “thân thiết” nói chung) được mở rộng nghĩa, có thêm nghĩa mới là “người tình, tình nhân” nói chung.
Đây là sự thâm nhập thường thấy của các từ ngữ từ phương ngữ vào ngôn ngữ chung, kèm theo đó là sự biến đổi nghĩa. Trong khi đó, nghĩa thứ nhất của từ “bồ” (bạn) và “bồ bịch” (bạn bè) gốc hầu như không được sử dụng ở các vùng phương ngữ Bắc. Sự biến đổi nghĩa này sử dụng cả hiện tượng đồng âm và mối quan hệ giữa các đơn vị độc lập: bồ 1 – bồ 2 – bịch – bồ bịch 2 – bồ bịch 1.
Có thể hình dung sự phân bố cách dùng của hai từ “bồ” và “bồ bịch” trong các vùng phương ngữ và vốn từ vựng tiếng Việt chung như sau:
PN Nam
- Trước đây: bồ 1 (bạn), bồ 2 (đồ đựng), bịch (đồ đựng), bồ bịch 1 (bạn bè)
- Hiện nay: bồ 1 (bạn; => tình nhân), bồ 2 (đồ đựng), bịch (đồ đựng), bồ bịch 1 (bạn bè; => nhân tình, người yêu), bồ bịch 2 (đồ đựng)
PN Bắc
- Trước đây: bồ 2 (đồ đựng), bịch (đồ đựng), bồ bịch 2 (đồ đựng)
- Hiện nay: bồ 1 (tình nhân), bồ 2 (đồ đựng), bịch (đồ đựng), bồ bịch 1 (nhân tình) và bồ bịch 2 (đồ đựng)
Đến nay, cách dùng “bồ” và “bồ bịch” với nghĩa “người yêu, nhân tình” đã trở thành phần của ngôn ngữ chung trong tiếng Việt.
Như vậy, có thể thấy sự biến đổi và ảnh hưởng lẫn nhau của các từ ngữ không phải là điều đơn giản. Điều này phản ánh cuộc sống của từ ngữ và sự phức tạp của mối quan hệ trong cuộc sống chúng ta.
Tài liệu tham khảo:
- Từ điển tiếng Việt. Hoàng Phê (chủ biên). Nxb Đà Nẵng 2000
- Từ điển tiếng Việt. Văn Tân, Nxb KHXH, 1977
- Từ điển Việt Nam. Lê Văn Đức. Nhà sách Khai trí, S.1970.
- Từ điển Việt Nam. Thanh Nghị, 1967
- Từ điển Việt Nam. Đào Văn Tập. Nhà sách Vĩnh Bảo S.1952
- Từ điển phương ngữ tiếng Việt. Đặng Thanh Hoà, Nxb Đà Nẵng, 2005
- Cơ sở dữ liệu. Phòng Từ điển học, Viện Ngôn ngữ học
- Kho phiếu. Phòng Từ điển học, Viện Ngôn ngữ học
- ChuBích Thu. Tính từ tiếng Việt (Sách chưa in)
- Nguyễn Thuý Khanh – Sự thâm nhập của từ địa phương vào ngôn ngữ toàn dân (Dưới cách nhìn từ điển học), Kỉ yếu hội nghị khoa học 2004, Viện Ngôn ngữ học.
- Nguyễn Tài Thái – Phạm Văn Hảo – Sự thâm nhập của từ địa phương miền Nam vào tiếng Việt toàn dân giai đoạn 1945 – 1975 (Qua tư liệu văn học đối chiếu với từ điển). Kỉ yếu hội nghị khoa học 2003, Viện Ngôn ngữ học.