Vị trí địa lý
Vĩnh Long là một tỉnh nằm ở hạ lưu sông Mê Kông, nằm giữa sông Tiền, sông Hậu và là trung tâm của khu vực ĐBSCL. Tỉnh này giáp các tỉnh Tiền Giang và Bến Tre ở phía Bắc và Đông Bắc, tỉnh Đồng Tháp ở phía Tây Bắc Đông, tỉnh Trà Vinh ở phía Đông Nam, và tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng và Thành phố Cần Thơ ở phía Tây Nam. Tọa độ địa lý của tỉnh Vĩnh Long nằm trong khoảng từ 9052’45’’ đến 10019’50’’ vĩ độ Bắc và từ 104041’25’’ đến 106017’03’’ kinh độ Đông. Tỉnh này có 8 đơn vị hành chính, bao gồm 6 huyện (Bình Tân, Long Hồ, Mang Thít, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm), thị xã Bình Minh và Thành phố Vĩnh Long, với tổng cộng 109 xã, phường, thị trấn.
Dân số và lao động
Dân số trung bình của tỉnh Vĩnh Long vào năm 2013 là 1.040.500 người, gồm nam giới 513.400 người và nữ giới 527.600 người. Dân số thành thị là 173.720 người, chiếm 6,8% dân số khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và 1,4% dân số cả nước. Mật độ dân số của tỉnh là 684 người/km2, với thành phố Vĩnh Long có mật độ dân số cao nhất là 2.934 người/km2, trong khi đó huyện Trà Ôn có mật độ dân số thấp nhất là 509 người/km2. Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ lớn với khoảng 97,3%, trong khi những dân tộc khác chiếm 2,7%. Dân tộc Khmer đến 21.820 người (chiếm gần 2,1%), dân tộc Hoa đến 4.879 người và các dân tộc khác đến 216 người. Các dân tộc này có phân bố đều trong tỉnh, với người Khmer sống tập trung ở 48 ấp, 10 xã và 01 thị trấn thuộc 04 huyện Trà Ôn, Tam Bình, thị xã Bình Minh, Vũng Liêm; người Hoa tập trung ở thành phố Vĩnh Long và các thị trấn. Số lao động từ 15 tuổi trở lên là 630.195 người, gồm nam giới 338.081 người và nữ giới 292.024 người. Trong số này, có 613.045 người đang làm việc, trong đó có 30.983 người làm việc cho nhà nước (chiếm 5,05%) và 566.020 người làm việc trong khu vực không thuộc nhà nước (chiếm 92,33%), còn lại 16.042 người làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 2,62%).
Địa hình
Vĩnh Long có địa hình khá bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 2 độ và cao trình khá thấp so với mực nước biển. Khu vực thành phố Vĩnh Long và thị trấn Trà Ôn có độ cao trung bình khoảng 1,25m. Tỉnh này có dạng địa hình đồng bằng ngập lụt cửa sông, với tiểu địa hình của tỉnh có dạng lòng chảo ở trung tâm tỉnh và cao dần về hai hướng bờ sông Tiền, sông Hậu, sông Mang Thít và các sông rạch lớn. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 152.017,6 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 78,23% và diện tích đất phi nông nghiệp chiếm 21,74%. Trong diện tích đất nông nghiệp, có 72.565,4 ha đất canh tác cây hàng năm, trong đó chủ yếu là đất lúa (71.069,2 ha); 45.372,4 ha đất trồng cây lâu năm; và 942,2 ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản.
Thời tiết – khí hậu – thủy văn
Thời tiết ở Vĩnh Long thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ cao và ẩm quanh năm. Nhiệt độ trung bình của tỉnh biến động từ 27,3 – 28,4°C, với năm 2010 ghi nhận nhiệt độ cao nhất. Bức xạ tại tỉnh này khá cao, với số giờ nắng trung bình trong một ngày là 7,5 giờ. Mật độ bức xạ quang hợp hàng năm đạt 79.600 cal/m2, và thời gian chiếu sáng bình quân hàng năm là 2.550-2.700 giờ. Độ ẩm không khí bình quân là 81-85%, với tháng 9 có độ ẩm cao nhất là 90% và tháng 3,4 có độ ẩm thấp nhất là 74%. Số ngày mưa bình quân trong năm là 100 – 115 ngày, với lượng mưa trung bình từ 1.300 – 1.690 mm/năm. Tỉnh Vĩnh Long không có khí hậu cực đoan, mặc dù có xuất hiện lốc xoáy, ngập lụt, và sét đánh trong mùa mưa hoặc mưa trái mùa trên diện rộng. Thủy văn của tỉnh Vĩnh Long chịu ảnh hưởng từ chế độ bán nhật triều không đều của biển Đông thông qua sông Tiền, sông Hậu, sông Mang Thít và hệ thống kênh rạch. Sông Cổ Chiên là nhánh của sông Tiền và sông Hậu là nhánh lớn thứ hai của sông Mê Kông chảy qua tỉnh. Sông Mang Thít nối sông Tiền và sông Hậu và không bị ảnh hưởng bởi mặn. Mực nước và biên độ triều trên các sông khá cao, cường độ triều truyền mạnh. Thời tiết, khí hậu và thủy văn thuận lợi cho nông nghiệp và đa dạng sinh học tự nhiên, nhưng có thể gây ngập úng ở một số khu vực.