Lịch sử Việt Nam từ nước nô lệ đến độc lập tự do
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đánh tan chính quyền thực dân phong kiến và thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, từ đó, nhân dân Việt Nam trở thành chủ nhân thực sự của đất nước. Tuy nhiên, Pháp không chịu buông tha và quyết tâm xâm lược nước ta, buộc người dân phải cầm vũ khí đứng lên bảo vệ độc lập tự do vừa giành được. Tuy nhiên, thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14/9 không được phía Pháp tôn trọng. Trung tuần tháng 11/1946, sau khi hỏi ý kiến Võ Nguyên Giáp về khả năng giữ Hà Nội và các thành phố, Bác Hồ đã quyết định trở lại Tân Trào sau một buổi làm việc của Hội đồng Chính phủ.
Việt Bắc – căn cứ địa cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ trước định nghĩa và chuẩn bị công việc lựa chọn Việt Bắc làm căn cứ địa an toàn để tiếp tục cách mạng. Trong tình hình lực lượng quân bị chênh lệch, chúng ta không thể dốc toàn lực vào một vài trận đánh, mà phải tổ chức kháng chiến kéo dài.
Việt Bắc là một vùng núi hiểm trở gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang. Các huyện Sơn Dương, Chiêm Hóa, Na Hang, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Chợ Đồn, Chợ Rã được chọn làm căn cứ địa. Việt Bắc có điều kiện thuận lợi về địa lý, lịch sử, kinh tế và lực lượng quần chúng đủ mạnh để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Về lịch sử, Việt Bắc là nơi gốc tích của dân tộc, từ đây các anh hùng dân tộc đã đứng lên chống ngoại xâm và là căn cứ chống Pháp của tiền bối Hoàng Hoa Thám. Việt Bắc còn là quê hương của giải phóng quân, anh cả của Vệ quốc quân. Về địa thế, Việt Bắc được xây dựng trên một vùng đất rộng lớn, chủ yếu là núi rừng. Địa thế hiểm trở này đã giúp bảo mật công tác xây dựng lực lượng cách mạng và trở thành địa bàn thuận lợi cho lực lượng vũ trang đánh du kích lâu dài, tiêu hao lực lượng địch và dễ dàng duy trì, phát triển lực lượng. Việt Bắc còn có thể liên lạc với phong trào cộng sản quốc tế qua việc giáp biên giới với Trung Quốc và cũng là cửa ngõ của miền xuôi, nhờ đó, Việt Bắc vẫn nhận được sự giúp đỡ từ miền xuôi. Khoảng cách từ Thái Nguyên đến Hà Nội cũng không xa, chỉ khoảng 80-90 km, cho phép lực lượng vũ trang di chuyển nhanh chóng để phát huy thắng lợi, hoặc nếu gặp khó khăn, có thể kịp thời lui về bảo toàn lực lượng. Bác Hồ đã cho rằng Việt Bắc có vị trí cơ động, là nơi “tiến có thể đánh, lui có thể giữ”.
Mục tiêu và vai trò của Việt Bắc trong kháng chiến
Mục tiêu của cuộc kháng chiến chống Pháp là bảo toàn và phát triển lực lượng, xây dựng căn cứ địa vững chắc. Căn cứ địa không chỉ thuận lợi về địa hình mà còn phải có phong trào và cơ sở quần chúng mạnh mẽ. Với tầm nhìn sâu sắc về tình hình, Bác Hồ đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Phạm Văn Đồng và một số cán bộ khác để củng cố khu căn cứ. Sau đó, đội công tác đặc biệt do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách đã lên Việt Bắc để “làm trong sạch” vùng căn cứ địa trong nhiều đợt.
Việt Bắc có lịch sử và địa thế thuận lợi, là lựa chọn đúng đắn để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Nhân dân các dân tộc Việt Bắc có lòng nồng nàn yêu nước, đoàn kết và cần cù trong lao động. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, họ đã sẵn sàng nghe theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ để đấu tranh. Việt Bắc không chỉ đơn thuần là căn cứ địa cách mạng, mà còn là trái tim của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự ủng hộ và lòng tin của nhân dân Việt Bắc là một trong những lý do quan trọng mà Bác đã lựa chọn Việt Bắc làm căn cứ địa cách mạng.
Sự an toàn và lòng tin của Việt Bắc
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ đã thay đổi nhiều lần địa điểm ở Việt Bắc để đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, Bác luôn tin tưởng vào lòng tin của nhân dân và tin rằng, sống giữa đồng bào Việt Nam là an toàn nhất. Một lần, khi đồng chí Lê Giản, Tổng Giám đốc Nha Công an Trung ương đưa một cố vấn công an Trung Quốc đi tham quan căn cứ Định Hóa, đồng chí cố vấn đã ngạc nhiên khi thấy những điều kiện sống cực kỳ giản dị của Bác Hồ. Đồng chí hỏi Bác rằng: “Tầng dưới nơi Bác làm việc ban ngày trống rỗng giữa rừng, khi thời tiết xấu thì bảo vệ thế nào?”. Bác Hồ chỉ bình tĩnh trả lời rằng: “Chúng tôi rất tin cậy đồng bào chúng tôi một lòng sắt son theo Đảng. Đồng chí đi cùng với đồng chí Lê Giản, nên không bị xét hỏi giấy tờ. Giả sử có kẻ xấu tấn công, chắc chắn họ sẽ không thoát mãi mãi”.
Trong suốt cuộc kháng chiến, nhân dân Việt Bắc và bộ đội đã dũng cảm chiến đấu với quân thù để bảo vệ căn cứ địa. Mỗi tên bản, tên núi, tên sông tại Việt Bắc đều gắn liền với những sự kiện và chiến công trong kháng chiến. Nhờ lựa chọn Việt Bắc làm căn cứ địa, cuộc kháng chiến đã xây dựng được chỗ đứng vững chắc. Đó cũng là một trong những cơ sở quan trọng để Đảng ta thực hiện đường lối “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Vì vậy, cuộc kháng chiến đã kết thúc bằng trận chiến lịch sử Điện Biên Phủ, nâng tầm danh tiếng của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.