Sông Thương – Một nguồn cảm hứng vô tận
Sông Thương, với tôi, đã trở thành một mối liên kết từ những kỷ niệm thơ ấu, khi chúng tôi thường trốn tránh mẹ để đi bơi cùng bạn bè, tắm và bắt con hến. Suốt bao thế hệ, dòng sông vẫn luôn yên bình, là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhạc sĩ tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bất hủ.
Vẻ đẹp giản dị của sông Thương đã khiến nhà thơ Lưu Quang Vũ tự hỏi: “Sao tên sông lại là Thương?/ Để lòng anh không nhớ?” (Qua sông Thương). Có lẽ không ai có thể giải thích được câu hỏi đó của nhà thơ, và cho đến hôm nay, vẫn có những người xao lòng với dòng sông “bên đục bên trong” này.
Sông Thương bắt nguồn từ dãy núi Na Pa Phước, làng Man, xã Vân Thủy, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Sau đó, nó chảy qua một thung lũng có tên Mai Sao, tiếp tục dòng chảy vào tỉnh Bắc Giang và cuối cùng hợp lưu với sông Thái Bình tại Hải Dương. Sông Thương còn có một nhánh lớn khác là sông Sỏi chảy từ huyện Yên Thế và đổ vào sông Thương tại tiếp giáp giữa ba huyện Yên Thế, Tân Yên và Lạng Giang. Gần thành phố Bắc Giang, có thêm một con sông đào đổ nước vào sông Thương. Nước của sông Thương trong xanh, còn nước từ sông đào thì đục, tạo ra hai dòng chảy song song, một bên trong và một bên đục. Hiện tượng này có thể được quan sát ở khu vực thành phố Bắc Giang. Lưu Quang Vũ đã mô tả sông Thương như sau: “Người xưa bảo đây đôi lòng lệ nhỏ/ Những suối buồn gửi tới mênh mang/ Đò về Nhã Nam/ Đò qua Phủ Lạng/ Mưa chiều nắng rạng/ Đã bao năm” (Qua sông Thương).
Trong quá khứ, sông Thương được gọi là Nhật Đức – “dòng sông mặt trời” cùng với sông Đuống (Thiên Đức), Nguyệt Đức (sông Cầu) và Minh Đức (sông Lục Nam), tạo thành bốn dòng sông lớn ở miền Bắc. Sông Thương còn có tên là Xương Giang vì bên bờ có thành lũy Xương Giang được xây dựng để phòng thủ trước cuộc tấn công từ phương Bắc. Theo dân gian và những người nghiên cứu địa phương, trong quá khứ, khi quan và quân Đại Việt đi sứ hoặc đi trấn áp biên thùy Lạng Sơn, người thân thường tiễn đưa đến khúc sông Nhật Đức. Nơi đây chứng kiến cảnh chia ly đầy cảm động, từ đó mọi người gọi nó là sông Thương. Hiện nay, bên sông Thương vẫn còn làng Thương và bến Chia Ly, là chứng nhân của những cuộc chia xa đau lòng.
Sông Thương còn liên quan chặt chẽ với địa danh Phủ Lạng Thương, thành Xương Giang, nơi diễn ra trận Chi Lăng – Xương Giang từ ngày 18/9 đến 3/11/1427 giữa quân Lam Sơn và hai đạo quân viện binh, với tổng số lượng lên đến 10 vạn người do Liễu Thăng và Mộc Thanh chỉ huy. Trận chiến lịch sử này của quân nghĩa Lê Lợi đã kết thúc 20 năm ách đô hộ của nhà Minh đối với Đại Việt. Trong bài thơ “Xương Giang phú”, Lý Tử Tấn (1378 – ?) – người cùng thời với Nguyễn Trãi, viết: “Non sông vốn thiêng/ Nơi đây vũ công lừng lẫy/ Giúp nên đất nước bình yên/ Lạch thiên nhiên của trời Nam sẵn có/ Mở thái bình cho đất Việt khắp miền/ Ấy Xương Giang một sông hình đẹp/ Mà dấu thơm muôn thuở còn truyền…”
Những tác phẩm nghệ thuật về sông Thương
Sông Thương đã làm khơi nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật.
Vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497) đã viết về sông Thương như sau: “Đứng bên bờ dốc ngắm sông dài/ Lặn với sao trời ráng đỏ soi/ Sông xa bát ngát buồm trăng xế/ Tiếng giặt đâu đây não ruột ai…” (Xương Giang cảm hoài). Nhà bác học Lê Quý Đôn, khi đi sứ qua đây, đã sáng tác một bài thơ với câu đầu là: “Khói tạnh đồng xanh nương rẫy tốt/ Vườn hoang sương lạnh lũy thành trơ…” (Độ Xương Giang).
Sau này, tác giả Đặng Thế Phong khi xuôi thuyền trên sông Thương đã sáng tác một bài hát rất đỗi tha thiết, Con thuyền không bến, để diễn đạt tình cảm của mình: “Đêm nay thu sang cùng heo may/ Đêm nay sương lam mờ chân mây/ Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng/ Như nhớ thương ai trùng tơ lòng…”
Về nguồn gốc của bài hát này, năm 1940, Đặng Thế Phong tạ temporarily away from family and loved ones to go to Bắc Giang for a few days. One evening, under the starry sky, Đặng Thế Phong and his friends rented a boat and sailed on the Thương River, enjoying themselves. Just when they were having a good time, someone handed Đặng Thế Phong a letter. It was a letter from his girlfriend, Tuyết, who was in Nam Định. After reading the letter, he felt sad because he learned that Tuyết had been sick for a whole week. That night, Đặng Thế Phong couldn’t sleep and wrote down his thoughts… “Floating on a boat against the wind, following the moon/ Drifting on the Thương River with dual streams/ Where will the boat go, oh boat/ In which part of the Thương River lies its destination/ Who knows the depth of the river?” In June 1942, at the Hanoi Opera House, the song was first performed by female singer Vũ Thị Hiển, causing a stir in the art community.
Musician Phạm Duy remarked: “The artist is no longer standing in a small garden, he takes us to the scene of autumn on a river. It seems as if Đặng Thế Phong has captured the emotions of young men and women of that era. They lived under the rule of colonialism and felt lost like boats without a destination. But this boat had to float on a river that belonged to the Vietnamese people, the Thương River with its dual streams. What is most important is that the boat drifted in a Vietnamese autumn, with light breezes, misty fog touching the clouds, wind whispering softly, and dim moonlight… If the boat drifted in the summer or on the Seine River, the song might not have captivated us for so long.”
The songs about the Thương River cannot be mentioned without referring to “Chiều sông Thương” (An Thuyên and Hữu Thỉnh). In this song, the river is depicted as a place filled with folk songs and the love of people and land. The singing echoes like the gentle and soothing river: “Walking through the village all afternoon, still haven’t reached the gate/ Enjoying the traditional Quan Họ songs, the banks of the Thương River bloom with purple/ The water still flows in dual streams, the afternoon sun bends its rays/ What the river wants to say, the sails now sing.” The beautiful and poetic scenery of the homeland, the love for the countryside, is deeply embedded in “Chiều sông Thương.”
And many more artistic works about the Thương River, such as “Qua cầu sông Thương” (Trần Chung), “Tấm áo mẹ vá năm xưa” (Nguyễn Văn Tý)…
For these reasons, it is not coincidental that the Art Garden of the Thương River was established, located next to the stretch of the river passing through Bac Giang city, covering an area of over 6 hectares. It was created by writer Sương Nguyệt Minh and entrepreneur Mười Duyên. According to writer Sương Nguyệt Minh, the Art Garden of the Thương River is a place to preserve the beautiful cultural heritage of Kinh Bắc and exhibit everyday items. It recreates ancient landscapes, such as paddy fields, bamboo baskets, winnowing trays, rice pounders, rainwater tanks, climbing plants, chrysanthemum bushes, ancient wells… It is also a venue for performances of traditional music and songs like ca trù and quan họ, as well as poems and songs about Kinh Bắc and the Thương River…