Sán lá gan là gì?
Sán lá gan là một loại ký sinh trùng phổ biến ở người, thuộc họ sán lá. Ở miền Bắc Việt Nam thường nhiễm sán lá gan lớn, còn ở miền Nam Việt Nam thường nhiễm sán lá gan nhỏ. Người bị bệnh thường có dấu hiệu đau vùng gan, rối loạn tiêu hóa, ăn uống khó tiêu, có khi vàng da, xơ gan… Bệnh dễ nhầm với viêm gan siêu vi, áp xe gan do các loại ký sinh trùng khác (amíp, giun đũa chó mèo…) hoặc do vi khuẩn (áp xe đường mật), ung thư gan (u gan), cơn đau dạ dày…
Đặc điểm cấu tạo của sán lá gan
Sán lá gan là loại ký sinh trùng có hình dạng giống chiếc lá, có thân dẹp và không phân thành từng đoạn. Sán có kích thước từ vài mm đến vài cm. Một loài sán lá gan có đĩa hút bụng và đĩa hút miệng. Đĩa hút bụng giúp sán bám vào cơ quan ký chủ một cách dễ dàng, trong khi đĩa hút miệng giúp sán tiêu hóa thuận tiện.
Sán còn có cơ quan sinh dục gồm cơ quan sinh dục đực và cơ quan sinh dục cái. Cơ quan sinh dục đực gồm 2 tinh hoàn phân nhánh hoặc chia thành nhiều thùy tùy loài, từ đó xuất phát 2 ống dẫn tinh. Sau một đoạn thì nhập lại cho ống duy nhất đi đến dương vật nằm trong túi dương vật. Cơ quan sinh dục cái gồm buồng trứng nhỏ chia nhiều thùy hoặc phân nhánh, ống dẫn trứng thông với noãn phòng, đổ ra lỗ sinh dục cái nằm cạnh lỗ sinh dục đực. Tuyến sinh noãn hoàng ở 2 bên thân sán. Noãn phòng là nơi trứng hình thành. Tử cung khúc khuỷu là nơi chứa trứng.
Phân loại sán lá gan
Sán lá gan gồm sán lá gan nhỏ và sán lá gan lớn. Với vẻ bề ngoài, sán lá gan lớn có kích thước lớn hơn rất nhiều so với sán lá gan nhỏ.
Sán lá gan nhỏ
Sán lá gan nhỏ: trứng rất nhỏ, hình thuẫn có nắp lồi dễ thấy, màu nâu sẫm, đối diện với nắp có gai nhỏ, kích thước 27x16mcm. Khi trưởng thành, sán có màu đỏ nhạt, dài 1-2 cm, chiều ngang 0,2-0,4 cm. Đĩa hút miệng lớn hơn đĩa hút bụng. Thực quản khá dài, chiếm ¼ chiều dài thân sán. Manh tràng dài đến tận cuối đuôi. Lỗ sinh dục ở trước đĩa hút bụng. Tinh hoàn phân nhánh nằm sau buồng trứng.
Sán lá gan lớn
Sán lá gan lớn: trứng sán có vỏ dày màu vàng nâu, hình bầu dục có nắp, kích thước 140x80mcm. Khi trưởng thành, sán có màu xám hồng, dài từ 3-4cm, giống như chiếc lá, phần đầu nhỏ chứa đĩa hút miệng. Sán có thực quản ngắn, ruột dài phân nhiều nhánh nhỏ chạy đến cuối thân. Cơ quan sinh dục đực có tinh hoàn phân nhánh nằm ở phía sau thân. Lỗ sinh dục ở trước đĩa hút bụng.
Vòng đời của sán lá gan
Sán lá gan trưởng thành sống trong ống mật. Trứng sán được đưa ra ngoài qua phân, và khi gặp nước, tế bào phôi bắt đầu phát triển thành ấu trùng có lông tơ. Ấu trùng chui qua nắp và tìm ốc thích hợp để chui vào, qua các giai đoạn bào tử nang, rồi tiến tới cuối cùng là ấu trùng đuôi.
Mỗi giai đoạn phát triển, số lượng ấu trùng tăng lên gấp bội. Một ấu trùng lông có thể cho ra 100.000 ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi rời ốc, bơi tìm ký chủ trung gian thích hợp để bám. Khi người hoặc động vật ăn ký chủ trung gian thứ hai, hậu ấu trùng đi vào ruột, di chuyển đến cơ quan thích hợp tùy loài và phát triển thành sán trưởng thành trong vài tháng.
Sán lá gan ký sinh ở đâu để phát triển?
Vòng đời của sán lá gan đòi hỏi nó phải ký sinh vào cơ thể người và động vật để phát triển chu kỳ của mình. Với sán lá gan nhỏ, sán ký sinh chủ yếu ở người và một số loài động vật như chó, mèo, hổ, báo, cáo, chồn, rái cá, chuột… Trứng sán được đưa ra ngoài qua phân, và khi gặp môi trường nước ngọt ở sông suối, ao hồ, trứng sán lơ lửng trong nước và bị loài ốc nước ngọt như Bithynia, Melania nuốt. Trong cơ thể ốc, ấu trùng lông tơ rời khỏi trứng, qua các giai đoạn từ bào tử nang đến ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi rời khỏi ốc, chui qua da cá nước ngọt thuộc họ Cyprinidae như cá diếc, cá rô, cá lia thia… Khi xâm nhập được vào cơ thể các loài cá, chúng rụng đuôi và trở thành hậu ấu trùng ở da hoặc thịt cá.
Sán lá gan lớn sống trong ống mật của các động vật ăn cỏ như trâu, bò, và đẻ trứng. Trứng dẫn theo mật và sau đó thông qua phân, phôi bào phát triển thành ấu trùng lông tơ sau 9-15 ngày. Khi rời khỏi trứng, sán gặp nước và ấu trùng lông tơ rời khỏi trứng, bơi trong nước, và chui vào ốc Lymnaea sống dưới nước. Trong cơ thể ốc, ấu trùng qua từng giai đoạn bào tử nang và trở thành ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi rụng khỏi ốc, bám vào cây thủy sinh, rụng đuôi và trở thành hậu ấu trùng.
Khi người hoặc động vật ăn cỏ ăn những loài rau này, hậu ấu trùng mất vỏ và trở thành sán non. Sán non chui qua vách ruột và di chuyển qua gan để sống trong các ống mật. Sán sống khoảng 1 năm ở đây. Trường hợp nhiễm sán non vào mạch máu sẽ gây viêm ống tụy.
Triệu chứng của bệnh sán lá gan
Với sán lá gan nhỏ, nhiều trường hợp người bệnh không có triệu chứng rõ rệt, tình cờ phát hiện bệnh khi đi xét nghiệm phân. Khi người bệnh nhiễm nhiều sán lá gan nhỏ (trên 100 con) thì triệu chứng rõ rệt hơn, với các giai đoạn:
- Giai đoạn khởi phát: người bệnh có rối loạn tiêu hóa, ói mửa, tiêu chảy xen kẽ táo bón, chán ăn. Ngoài ra, người bệnh có thể nổi mẩn kèm bạch cầu ái toan tăng cao.
- Giai đoạn toàn phát: sụt cân, đau bụng. Trong trường hợp bệnh nặng, gan sẽ to, cứng, đau và ống dẫn mật bị sưng, vách dày lên làm tắc mật, ứ mật, vàng da. Nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, người bệnh có thể bị suy kiệt dần rồi chết. Trong trường hợp sán lạc chỗ đến ống tụy sẽ gây viêm ống tụy.
Với sán lá gan lớn, ở giai đoạn khởi phát thường kéo dài 2-3 tháng tương ứng với giai đoạn khi sán non bắt đầu di chuyển trong nhu mô gan hướng về ống mật. Với những triệu chứng nhiễm độc như nhức đầu, sốt nhẹ, mệt mỏi, tiêu chảy, đau vùng hạ sườn phải. Khi bác sĩ khám sẽ thấy gan to, sờ đau, bạch cầu ái toan trong máu tăng lên đến 70% – 80%.
Giai đoạn toàn phát: viêm ống mật mạn tính tương ứng sự hiện diện sán trưởng thành trong ống mật. Bệnh có triệu chứng như viêm ống mật cấp, gan to đau, sốt kèm ớn lạnh, rối loạn chức năng tiết mật, tiêu chảy xen kẽ táo bón, vàng da, dị ứng, tổng trạng suy sụp. Bệnh dây dưa trong nhiều năm, tuy nhiên ít khi tiến đến xơ gan.
Khi nào cần gặp bác sĩ?
Bệnh sán lá gan nhỏ đã được xác định ở ít nhất 21 tỉnh/thành tại Việt Nam. Nếu có dấu hiệu lâm sàng như đau âm ỉ, thích ăn gỏi cá, nên đi gặp bác sĩ. Khi khám, bác sĩ sẽ nhận thấy có thể gan người bệnh to, cứng. Xét nghiệm sẽ ghi nhận bạch cầu ái toan trong máu tăng cao, thường từ 15%-20%.
Bệnh sán lá gan lớn đã xuất hiện ở 47 tỉnh, thành phố ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm cao nhất ở một số tỉnh miền Trung như: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai và Đà Nẵng. Với những người có dấu hiệu đau vùng hạ sườn phải, ăn xà lách xoong hoặc rau thủy sinh, nên đi gặp bác sĩ để kiểm tra và chẩn đoán.
Điều trị và phòng ngừa sán lá gan
Việc điều trị bệnh sán lá gan phụ thuộc vào từng ca bệnh. Với những bệnh nhẹ, người bệnh thường được điều trị bằng thuốc phù hợp. Nhưng với những trường hợp nặng hơn như tạo các ổ áp xe ở gan, cần nhập viện và sử dụng các phương pháp điều trị khác như thuốc diệt sán và kháng sinh.
Để phòng ngừa sán lá gan, cần tuân thủ việc ăn chín – uống sôi. Tránh ăn gỏi cá sống, ăn rau mọc dưới nước chưa rửa kỹ. Quản lý tốt phân chuồng động vật nuôi và thú cưng. Đối với sán lá gan lớn, không ăn rau sống mọc hoang, rau mọc dưới nước mà không được rửa kỹ. Cần tách khỏi đàn trâu bò cừu riêng biệt với khu vực trồng rau.
Để kiểm tra và điều trị bệnh sán lá gan, bạn có thể đặt lịch khám tại LADEC để được tư vấn và điều trị bởi các chuyên gia hàng đầu về bệnh ký sinh trùng. Hãy chú ý đến việc ăn chín – uống sôi để giảm nguy cơ nhiễm các loại ký sinh trùng nguy hiểm.