Ánh sáng nổi bật giữa núi rừng Lam Sơn
Trong thế giới núi rừng Lam Sơn huyền thoại, có một chàng trai mang trên mình chiếc áo vải đất Khả Lam, tên là Lê Lợi. Ngày đêm, Lê Lợi nung nấu hoài bão cứu nước, giúp dân thoát khỏi ngọn lửa tàn phá. Ông đã xác định con đường sống của mình: “Ta không dấy binh vì tham phú quý, mà vì muốn cho ngàn đời sau biết rằng ta không chịu thần phục quân giặc.” Tấm lòng với nước, với dân, ngọn cờ đại nghĩa của Lê Lợi sáng như sao Khuê, tuân theo lẽ trời, hợp với lòng người. Anh hùng dân tộc từ khắp nơi đã đến Lam Sơn để gặp Lê Lợi và cùng nhau dấy lên ý nghĩa cứu nước.
Tượng đài Lê Lợi uy nghiêm giữa lòng TP. Thanh Hóa.
Hướng về ánh sáng Lũng Nhai
Những anh hùng, dân chúng từ khắp bốn phương và mọi tầng lớp xã hội, ngày đêm đều lặn lội về Lam Sơn để cùng nhau dựng nghĩa. Gia đình Lê Lợi, bạn bè và các nghĩa sĩ đã khẩn trương khai khẩn ruộng nương, chuẩn bị lương thảo, tập trung lực lượng. Lam Sơn trở thành nơi trú quân, bãi luyện binh, rèn mài khí giới. Mọi người đều sống vì nước, quên mình. Dưới vẻ bề ngoài yên bình, Lam Sơn đang trỗi dậy ý chí diệt thù, chỉ chờ thời cơ để phát động với sức mạnh phi thường.
Đến cuối năm 1417, mọi điều kiện cho cuộc khởi nghĩa đã được chuẩn bị. Lê Lợi đã triệu tập “đại hội tướng sĩ” và quyết định khởi nghĩa. Quân nghĩa của Lê Lợi có khoảng 2.000 người, trong khi đó, quân Minh đang tập trung lực lượng để tấn công Lam Sơn. Lê Lợi nhìn thấy âm mưu của địch, điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi. Ông quyết định lấy thế chủ động và khởi nghĩa.
Một ngày đông năm 1418
Vào ngày mùng 2 tết năm Mậu Tuất (7 tháng 2 dương lịch) trong không khí Tết Nguyên đán truyền thống của dân tộc, cờ khởi nghĩa của Lê Lợi đã tung bay trên núi rừng Lam Sơn. Tiếng hô của tướng sĩ Lê Lợi được vọng lên, ông được suy tôn làm Bình Định Vương. Cờ Bình Định Vương được giương cao, khẳng định sức mạnh vĩ đại của Đại Việt trong cuộc chiến giải phóng dân tộc ở thế kỷ XV.
Suốt 10 năm chiến đấu bền bỉ, kiên cường, cờ đại nghĩa Bình Định Vương đã bay khắp miền núi rừng Thanh Hoá. Những trận đánh lịch sử như Mường Một, Mường Chính, Bến Bổng, Ba Lẫm, Kình Lộng, Sách Khôi… đã tiến công chiến lược vào Nghệ An theo kế sách của Nguyễn Chích. Cuối cùng, quân nghĩa đã giải phóng Tân Bình – Thuận Hoá. Tiếp theo đó, cờ nghĩa đã tiến thẳng ra Bắc và gặt hái nhiều thành công oanh liệt, với chiến dịch Tốt Động – Chúc Động tiêu diệt và bắt sống hơn 6 vạn quân địch và chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang tiêu diệt hơn 10 vạn viện binh của Liễu Thăng. Cuộc kháng chiến đã đạt thắng lợi hoàn toàn.
Khu Di tích Lam Kinh.
Chàng trai đến từ Lam Sơn trở thành hoàng đế
Vào Xuân Đinh Mùi (1427), cờ nghĩa Bình Định Vương đã tung bay trên nóc thành Đông Quan, báo hiệu cuộc kháng chiến toàn thắng. Vào mùa xuân tiếp theo, ngày mùng 3 tết Mậu Thân (1428), quân xâm lược nhà Minh cuối cùng cũng bị đẩy khỏi bờ cõi. Đất nước đã được giải phóng hoàn toàn. Tuyên ngôn độc lập “Đại cáo bình Ngô” vang vọng trên núi sông. Cờ Bình Định Vương trở thành quốc kỳ Đại Việt, tung bay trong bầu trời sáng ngời nắng xuân. Đất nước đã giành được độc lập và Lê Lợi trở thành Bình Định Vương, mở đầu triều Lê, đặt tên nước là Đại Việt và thủ đô là Đông Kinh (tức Đông Quan – Hà Nội ngày nay).
Vào mùa xuân Nhâm Tý (1432), Lê Thái tổ đã dẹp cuộc nổi loạn của Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ (Lai Châu) để đảm bảo sự yên bình cho đất nước.
Trong gần 4 thế kỷ tồn tại của triều đại nhà Lê (từ đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII), Đại Việt đã giữ được độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, không phải đối mặt với sự xâm lược của phong kiến phương Bắc.
Vẫn còn nhớ mãi trong ánh sáng của núi rừng Lam Sơn, với tên người, tên đất, tên núi sông liên kết với những chiến công hiển hách và những câu chuyện kỳ diệu. Hào quang của “đại nghĩa” của anh hùng dân tộc Lê Lợi ngày càng rạng rỡ kể từ mùa xuân ấy.
Đọc thêm về LADEC.