Cấu trúc Luận văn
Vấn đề sử dụng các thuật ngữ khoa học
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ khoa học, mỗi quan điểm dựa trên một cơ sở nhất định. Trong giáo trình “Ngôn ngữ báo chí”, PGS.TS. Vũ Quang Hào đã trình bày nhiều cách tiếp cận khác nhau để định nghĩa thuật ngữ khoa học.
Theo ông, thuật ngữ khoa học là một hệ thống phù hiệu hoàn toàn trừu tượng và ước lệ, không thể đo lường, và có mục đích duy nhất là tạo ra các cụm từ thuận tiện nhất để biểu đạt các sự vật không có quan hệ trực tiếp với nhu cầu của tư duy lý luận dựa trên sự thực. Ông cũng cho rằng thuật ngữ liên quan chặt chẽ với hệ thống khái niệm của một khoa học cụ thể, trong khi đó, danh pháp chỉ “đánh dấu” cho đối tượng của nó mà không có quan hệ trực tiếp với khái niệm của khoa học. Danh pháp có thể coi là thuật ngữ khi nó biểu thị khái niệm chung, trong khi các thuật ngữ biểu thị khái niệm riêng lẻ [20, 111].
Theo cuộc khảo sát của chúng tôi, danh pháp khoa học xuất hiện khá thường xuyên trong các tin tức và bài viết trên truyền hình Việt Nam. Mặc dù tỷ lệ xuất hiện không nhiều như thuật ngữ khoa học, nhưng hầu hết các tin tức từ VTV1 đến các đài địa phương đều sử dụng các thuật ngữ này với số lượng ổn định. Dưới đây là các số liệu khảo sát của chúng tôi trong một số chương trình:
Chương trình | Đài | Số lần xuất hiện |
---|---|---|
Thời sự 19h00 | VTV1 | 74 |
Việt Nam và các chỉ số | VTV1 | 9 |
Thời sự TRT1 | 23 | |
Thời sự DRT | 12 | |
Thời sự THVL | 11 | |
Phổ biến kiến thức | HTV | 15 |
Thời sự NBT | 17 |
(Tổng cộng 5 lần khảo sát ngẫu nhiên trong tháng 8/2009) [^2^]
Các thuật ngữ khoa học xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau như thuật ngữ y học, thuật ngữ sinh học, thuật ngữ hóa học, thuật ngữ tin học-kỹ thuật, thuật ngữ quân sự… và tỷ lệ của những thuật ngữ này tương đối đồng đều.
Hầu hết các thuật ngữ khoa học trong các tin tức và bài viết truyền hình Việt Nam được các biên tập viên và người dẫn chương trình đọc theo hai dạng: Việt-Anh, Anh-Việt và Hán-Việt. Cách đọc này phù hợp với việc tiếp nhận thông tin của công chúng Việt Nam. Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi, các dạng phát âm theo chữ Latin-Anh, chữ Latin-Pháp… thường được sử dụng ít. Có lẽ phần lớn vì công chúng Việt Nam chưa quen với cách phát âm này.
Ví dụ: “Theo nghiên cứu của Bệnh viện K Trung ương từ năm 2000 – 2008, tỷ lệ bệnh nhân ung thư trẻ em được chữa khỏi đạt khoảng 70%, thậm chí trên 70% đối với một số loại ung thư, ví dụ như ung thư võng mạc hay là bệnh ulimfo…” (Thời sự 19h00, VTV1 ngày 26/11/2009). Hoặc: “Sau hai năm trì hoãn, chiếc máy bay Boeing 787 Dream Liner đã có chuyến bay thử nghiệm đầu tiên kéo dài 3 tiếng trên bầu trời nước Mỹ. Chiếc máy bay được xem là chiếc máy bay tiết kiệm nhiên liệu nhất thế giới hiện nay nhờ trọng lượng được cắt giảm đáng kể do vỏ được làm bằng hợp kim cacbon và titan.” (Thời sự 19h00, ngày 20/10/2009).
Các thuật ngữ như “máy bay Boeing 787 Dream Liner”, “hợp kim cacbon”, “ti tan” được người dẫn chương trình đọc dưới dạng Việt-Anh. Trong khi đó, thông tin về tên bệnh bằng tiếng Việt là bệnh “ung thư võng mạc”, được người dẫn chương trình cung cấp thêm bằng thuật ngữ tiếng Anh “là bệnh ulimfo”.
Việc sử dụng thuật ngữ trong tin tức và bài viết truyền hình là một cách làm hợp lý, tiết kiệm thời gian và tạo được hiệu quả thông tin cao đối với công chúng truyền hình. Tuy nhiên, do khán giả chỉ nghe qua một lần nên rất khó nhớ chính xác và đầy đủ tất cả những gì được nghe. Cùng với việc sử dụng viết tắt, số liệu, ký hiệu, thuật ngữ là một loại đơn vị gây rất nhiều khó khăn cho việc tiếp cận thông tin từ truyền hình. Để khắc phục tình hình này, các biên tập viên của truyền hình Việt Nam đã sử dụng các dạng thuật ngữ dễ tiếp nhận ngay từ quá trình tạo văn bản. Khi đọc, người dẫn chương trình đọc dễ dàng, rành mạch, rõ ràng, ít mắc lỗi nên công chúng cũng nhận được thông tin một cách hiệu quả.
Vấn đề khác là trong một số tin tức, nhiều người dẫn chương trình đã đọc nguyên dạng thuật ngữ khoa học theo tiếng nước ngoài, ví dụ như “acidclohidric”, “ampicilline”, “abadie II”, “abadie I” mà không phiên âm thành tiếng Việt.
Ngoài ra, nhiều thuật ngữ xuất hiện trong một tin tức có thể gây dồn nén thông tin, đặc biệt là khi một thuật ngữ giải thích cho thuật ngữ khác. Những hạn chế này sẽ làm gián đoạn việc tiếp nhận thông tin và nguy hiểm hơn nếu đó là các tin tức có tính phổ biến kiến thức, kênh chỉ dẫn sẽ làm cho công chúng hiểu sai và làm sai.
Để giải quyết tình trạng này, giải pháp của PGS.TS. Vũ Quang Hào đưa ra trong giáo trình “Ngôn ngữ báo chí”, theo chúng tôi là hợp lý nhất:
-
Xác lập các tiêu chí để chọn loại thuật ngữ nào, dạng thuật ngữ nào. Thậm chí có thể tìm giải pháp chuyển tải nội dung của thuật ngữ bằng một cách nào đó mà không ảnh hưởng đến nội dung thông tin.
-
Trong những trường hợp cần thiết, thuật ngữ phải xuất hiện một cách bắt buộc và đúng như dạng ban đầu của nó thì có thể sử dụng biện pháp vừa đọc vừa phiên âm [^2^].
Vấn đề đọc tên riêng tiếng nước ngoài và chữ viết tắt
Tên riêng theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt là “tên gọi của từng cá nhân, cá thể, phân biệt với những cá nhân, cá thể khác cùng loại” [^40^]. Theo PGS.TS. Vũ Quang Hào, “những đơn vị định danh một cá thể người, vật, địa điểm (quốc gia, thủ đô…) tổ chức (tổ chức chính trị – xã hội, cơ quan, trường học, bệnh viện…), sự kiện..” là tên riêng. Ông cũng cho rằng một quan niệm như vậy chưa đạt được độ chính xác khả dĩ của một định nghĩa, nhưng đã khắc phục được cách hiểu hẹp, theo đó tên riêng chỉ là tên người và tên đất với cách nói khái quát là danh từ riêng [^20^].
Trên truyền hình Việt Nam hiện nay, cách sử dụng tên riêng có nhiều dạng khác nhau như “Tên riêng tiếng Việt”, “Tên riêng tiếng dân tộc thiểu số”, “Tên riêng tiếng nước ngoài”, “Tên riêng tiếng Việt và tiếng nước ngoài”. Trong cuộc khảo sát của chúng tôi, chúng tôi chỉ tập trung vào vấn đề sử dụng tên riêng tiếng nước ngoài, các loại tên riêng khác sẽ được đề cập ở các công trình sau này. Vì vấn đề sử dụng tên riêng tiếng nước ngoài trên truyền hình Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều khó khăn.
Về mặt số liệu, tên riêng tiếng nước ngoài xuất hiện khá nhiều và đều đặn trong các tin tức truyền hình. Sự xuất hiện của tên riêng tiếng nước ngoài nhiều và đồng đều nhất vẫn là trong các bản tin thời sự quốc tế và thể thao quốc tế. Các số liệu khảo sát trong một tháng trên các đài truyền hình quốc gia và địa phương chứng minh điều này.
STT | Tên chương trình | Tên đài | Số lần xuất hiện | Trung bình |
---|---|---|---|---|
1 | Thời sự 19h00 | VTV1 | 1108 | 36.9 |
2 | Bản tin thể thao 24/7 | VTV1 | 664 | 22.1 |
3 | 3600 thể thao | VTV3 | 1224 | 40.8 |
4 | Thời sự DVTV | 908 | 30.2 | |
5 | Thời sự HVTV | 726 | 24.2 | |
6 | Việt Nam & Thế giới | TRT1 | 984 | 32.8 |
7 | Thời sự HTV | 952 | 31.7 | |
8 | Thời sự THVL | 684 | 22.8 | |
9 | Thời sự TNRT | 690 | 23.0 |
(Các số liệu được thu thập trong 1 tháng – 9/2009) [^2^]
Bảng thống kê cũng cho thấy số lượng tên riêng tiếng nước ngoài xuất hiện nhiều nhất trong các tin tức của VTV, tiếp theo là các đài địa phương. Tần suất xuất hiện cao nhất của tên riêng tiếng nước ngoài vẫn là trong bản tin “3600 thể thao” – VTV3 với 40.8 lần, tiếp đến là “Thời sự 19h00” – VTV1 với 36.9 lần. Các đài địa phương có tần suất xuất hiện ít hơn như “Thời sự” – HVTV 24.2 lần, “Thời sự” – TNRT 23 lần.
Theo khảo sát của chúng tôi, trên truyền hình Việt Nam hiện nay, việc đọc tên riêng tiếng nước ngoài có nhiều cách khác nhau. Sự không thống nhất này đã gây ra hiện tượng mỗi người có một cách đọc, mỗi chương trình, mỗi đài cũng có một cách phiên âm khác nhau. Chúng tôi chỉ tập trung vào 3 cách đọc sau:
-
Đọc theo âm tiếng Việt, cách này có khoảng 20% (Ví dụ: “Bộ trưởng quốc phòng hai nước Thái Lan và Campuchia, ngày hôm qua đã có cuộc gặp tại Băng Cốc, Thái Lan nhằm thảo luận các biện pháp giảm căng thẳng giữa hai nước. Cuộc gặp diễn ra trong khuôn khổ phiên họp của Ủy ban biên giới chung Camphuchia, Thái Lan” – Thời sự 19h00, VTV1, ngày 28/11/2009; “Trong khuôn khổ hợp tác phát triển giáo dục giữa Việt Nam và Lào giai đoạn từ năm 2010 đến 2015, sáng nay tại Viêng chăn, đã diễn ra lễ ký biên bản ghi nhớ hợp tác phát triển giáo dục của hai chính phủ Việt Nam và Lào. Cùng ngày hai đoàn đại biểu của hai nước cũng đã đi tham quan các cơ sở đào tạo tại Chiềng Mai, Thái Lan” – Việt Nam và Thế giới 18h45, TRT1, ngày 4/5/2010). Cách phát âm này tiện lợi cho người dẫn chương trình và công chúng dễ dàng nắm bắt thông tin. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể phiên âm được đúng, đặc biệt là với các từ mới.
-
Đọc theo phiên âm Hán-Việt, khoảng 10%. Cách này đang giảm dần. Trước đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng nói chung và truyền hình nói riêng, người dẫn chương trình thường phiên âm các tên nước ngoài thành âm Hán-Việt, ví dụ như “Hoa thịnh đốn” (Washington), “Nã phá luân” (Napoleon), “Phi lập tân” (Philippin), “Cựu Kim sơn” (San Francisco). Nhưng hiện nay, thay thế cho việc phiên âm, các từ quen thuộc và có liên quan đến tiếng Hán đã được sử dụng. Những từ như Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Úc, Nga, Ba Lan, Nhật, Hàn Quốc, Triều Tiên, Tây Ban Nha, Bồ Đồ Nha, Đức… được sử dụng thường xuyên trong các tin tức truyền hình.
-
Đọc theo phiên âm tiếng Anh và Pháp, khoảng 65%. Đây là cách sử dụng tên riêng tiếng nước ngoài phổ biến nhất trên truyền hình Việt Nam (65%). Các ngôn ngữ không sử dụng hệ chữ cái Latin đều được người dẫn chương trình phiên âm hoặc theo tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Cách làm này có nhiều ưu điểm như: người dẫn chương trình thường tiếp cận tiếng Anh và tiếng Pháp nhiều hơn, công chúng đã quen thuộc với cách phát âm tiếng Anh và tiếng Pháp hơn so với các ngôn ngữ khác.
Tuy nhiên, việc sử dụng cách phát âm tiếng Anh và tiếng Pháp trên truyền hình Việt Nam cũng cần lưu ý. Thứ nhất, có những trường hợp phát âm không chính xác của tên riêng từ các ngôn ngữ khác sang tiếng Anh, tiếng Pháp. Thứ hai, việc phát âm lẫn lộn giữa tiếng Anh và tiếng Pháp cho cùng một tên riêng. Thứ ba, việc phát âm không chính xác tên riêng hoặc lẫn lộn tên riêng này với tên riêng khác.
Với sự phức tạp như vậy, tìm ra giải pháp hợp lý trong thời gian ngắn là không thể. Vấn đề tên riêng tiếng nước ngoài và giải pháp cho việc đọc tên riêng một cách thống nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng đã được bàn luận khá nhiều, nhưng hiện tại vẫn chưa có giải pháp khả thi. Do vậy, trong kích thước nhỏ này, chúng ta chỉ có thể nêu trạng thái hiện tại mà không thể đề cập đến các giải pháp [^7^].