Dịch tả heo châu Phi là một loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây ra bởi virus trên heo. Bệnh này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1921 tại Kenya, Đông châu Phi, và nhanh chóng lan rộng đến miền Nam châu Phi. Năm 1957, bệnh đã xuất hiện ở châu Âu và sau đó được phát hiện ở một số nước thuộc vùng Ca-ri-bê như Cuba, Haiti và công hoà Dominica. Heo rừng là loài động vật mang virus gây bệnh và lan truyền virus cho heo nhà thông qua loài ve ký sinh trên heo rừng. Virus gây bệnh Dịch tả heo châu Phi lan truyền âm ỉ trong đàn heo rừng ở một số quốc gia châu Âu và từ năm 2018, bệnh đã bùng phát mạnh trên những đàn heo rừng ở Nga, Ru-ma-ni, Bun-ga-ri, Bỉ và Trung Quốc [^1^].
Bệnh Dịch tả heo châu Phi chưa có vắc xin để phòng, và nó có tỷ lệ bệnh và tỷ lệ chết rất cao ở tất cả các lứa tuổi heo, gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho đàn heo nhiễm bệnh. Ở Việt Nam, đã xác nhận 3 ổ dịch đầu tiên của bệnh Dịch tả heo châu Phi trên đàn heo nuôi ở Hưng Yên và Thái Bình [^2^]. Đây là một mối đe dọa cực kỳ nghiêm trọng, gây ra những hậu quả vô cùng lớn và không thể đánh giá nổi cho ngành chăn nuôi heo Việt Nam. Vì vậy, cả hệ thống chăn nuôi – thú y, bao gồm cả các nhà chăn nuôi, cần phải nâng cao ý thức cảnh giác, chú ý kiểm soát và ngăn ngừa lây nhiễm qua việc mua bán và vận chuyển heo xuyên biên giới, kể cả xuyên tỉnh. Cần áp dụng triệt để các biện pháp an toàn sinh học để phòng chống tuyệt đối sự xâm nhập của virus Dịch tả heo châu Phi vào các trại nuôi heo [^2^].
Tác nhân gây bệnh
Bệnh Dịch tả heo châu Phi do virus thuộc họ Asfarviridae, giống Asfivirus gây ra. Virus này có kích thước khá lớn, đường kính khoảng 200 nm và có vỏ bọc ngoài. ASFV có thể tồn tại trong máu heo đến 18 tháng ở nhiệt độ phòng và có thể tồn tại nhiều năm ở nhiệt độ từ 4 °C đến 20 °C. Tuy nhiên, ASFV có thể bị bất hoạt ở nhiệt độ 60 °C trong vòng 30 phút và nhạy cảm với tia tử ngoại và các chất sát trùng thương mại [^1^].
Dịch tễ
Bệnh Dịch tả heo châu Phi chủ yếu xuất hiện ở châu Phi và đã lan rộng đến châu Âu và gần đây là Trung Quốc. ASFV chỉ gây bệnh cho các loài heo, bao gồm heo nhà và heo rừng châu Âu, trong khi loài heo rừng châu Phi và loài ve ký sinh trên heo rừng là nguồn mang virus tự nhiên [^1^].
ASF có thể lây lan chủ yếu qua tiếp xúc trực tiếp và qua đường máu, nên tốc độ lây lan nhanh trong chuồng khi nuôi heo với mật độ cao. Virus có thể xâm nhập vào trại qua tiếp xúc với heo rừng, nhập đàn heo đã nhiễm ASFV, sử dụng thịt heo nhiễm virus, cho heo ăn phụ phế phẩm nhiễm ASFV chưa được nấu chín kỹ hoặc sự ra vào trại của người và phương tiện nhiễm ASFV trong vùng dịch. Heo nuôi bị nhiễm ASFV có thể bài thải một lượng lớn virus trước khi có dấu hiệu lâm sàng, qua nước bọt, nước mắt, dịch mũi, nước tiểu, phân và dịch âm đạo. Virus cũng có thể tồn tại trong môi trường có nhiều protein như thịt, máu, phân và tồn tại lâu trong thịt đông lạnh. Sự lây truyền chủ yếu của ASFV xảy ra qua đường miệng và đường mũi khi tiếp xúc với mầm bệnh. Đồng thời, ASFV cũng có thể lây nhiễm qua các vết thương và đường máu. Ruồi hút máu cũng có thể truyền lây virus trong vòng 24 giờ sau khi hút máu heo bị bệnh ASF. Trong thời gian diễn ra ổ dịch, virus có thể lây truyền qua kim tiêm dùng chung cho nhiều heo [^1^].
Miễn dịch
ASFV có đặc điểm miễn dịch phức tạp với nhiều yếu tố kháng nguyên. Heo nhiễm ASFV sẽ phản ứng tạo kháng thể cao và có thể phát hiện qua xét nghiệm. Tuy nhiên, do sự đa dạng di truyền và kháng nguyên của ASFV, các xét nghiệm dựa trên kháng thể trung hoà đặc hiệu với ASFV vẫn chưa đạt hiệu quả mong muốn. Ngoài ra, miễn dịch tế bào cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ heo khỏi bệnh ASF [^3^].
Triệu chứng và bệnh tích
ASFV gây sốt và xuất huyết trên heo nhiễm. Triệu chứng lâm sàng thường xuất hiện sau 5 – 15 ngày heo bị nhiễm ASFV. Heo bị bệnh thể cấp sẽ có triệu chứng sốt cao, mệt mỏi, biếng ăn, thở nhanh, da sung huyết và có thể xuất hiện xuất huyết ở vùng bụng và các đầu mút. Heo cũng có thể đi đứng không vững, chân sau yếu và có thể co giật. Heo bệnh cũng có thể chảy dịch mũi trắng, đặc có thể lẫn máu, mắt có thể có ghèn, niêm mạc có thể sung huyết nặng và đau bụng ói mửa. Một số heo cũng có hiện tượng bón hoặc tiêu chảy có máu. Heo nái mang thai có thể sẩy thai ở mọi giai đoạn. Heo bệnh thể cấp thường chết trong vòng 7 ngày sau khi xuất hiện triệu chứng. Heo chết ở thể cấp thường có trạng khá tốt [^1^].
Trong thể mãn, heo bị bệnh sẽ trở nên gầy yếu và lông dài xơ xác. Heo bị bệnh ASF thể mãn sẽ chết sau vài tuần hoặc vài tháng [^1^].
Bệnh tích
Bệnh tích ghi nhận chủ yếu ở lách, hạch lympho, thận và tim. Mổ khám cho thấy có dịch tràn màu nâu ở xoang ngực và xoang bụng, xuất huyết ở nhiều cơ quan, lách sưng, nhồi máu, bở, hạch sưng xuất huyết, phổi phù chứa nhiều bọt, khí quản đầy bọt có thể nhuốm máu, thận xuất huyết điểm, tim xuất huyết điểm và tụ huyết. Các bộ phận khác như dạ dày và ruột cũng có thể xuất huyết, gan và túi mật cũng có dấu hiệu sung huyết [^1^].
Chẩn đoán
Chẩn đoán lâm sàng bệnh Dịch tả heo châu Phi dựa trên dấu hiệu lâm sàng giống với các bệnh khác như Dịch tả heo cổ điển, PRRS, đóng dấu son và tụ huyết trùng. Khi ghi nhận hiện tượng heo bệnh và chết hàng loạt ở mọi lứa tuổi với triệu chứng lâm sàng và bệnh tích xuất huyết tràn lan, có thể nghi ngờ bệnh Dịch tả lợn châu Phi. Việc chẩn đoán phòng thí nghiệm cần xác định sự có mặt của virus hoặc ADN virus trong mẫu hạch lympho hoặc lách và xác định tình trạng lưu nhiễm của ASFV thông qua xét nghiệm kháng thể [^4^].
Phòng chống và điều trị
Hiện chưa có vắc-xin phòng bệnh Dịch tả heo châu Phi, vì vậy phòng chống chủ yếu dựa trên các biện pháp an toàn sinh học kiểm soát lây nhiễm xuyên biên giới và xuyên khu vực. Nên không sử dụng phụ phẩm có nguồn gốc từ heo hoặc chỉ sử dụng khi đã nấu chín kỹ. Tăng cường vệ sinh, tiêu độc sát trùng trong và ngoài chuồng trại là cần thiết. Đồng thời, cần ngăn chặn người và phương tiện vận chuyển từ bên ngoài vào trại nếu chưa qua tiêu độc và sát trùng. Nhân viên trong trại cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình vệ sinh, tiêu độc và sát trùng khi làm việc tại các khu chuồng nuôi [^2^].
Để điều trị bệnh Dịch tả heo châu Phi, cần thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phòng chống dịch bệnh bằng cách tiêu huỷ heo nghi bệnh, vệ sinh và tiêu độc sát trùng toàn bộ chuồng trại, dụng cụ và phương tiện vận chuyển. Cũng cần cấm trại đối với nhân viên không thuộc trại và không cho người ngoài vào khu vực trại [^2^].
PGS.TS Nguyễn Ngọc Hải – Giảng viên ĐHNL TP.HCM
Tài liệu tham khảo:
- P.J. Sánchez-Cordón1, M. Montoya, A.L. Reis, L.K. Dixon. African swine fever: A re-emerging viral disease threatening the global pig industry. The Veterinary Journal 233 (2018) 41-48.
- Almanac Đại học Nông Lâm TP.HCM.
- Barbara E. Straw Jeffery J. Zimmerman Sylvie D’Allaire David J. Taylo. Diseases of swine. 9th edition, ©2006 Blackwell Publishing All rights reserved.
- FAO, 2000. Recognizing African swine fever. A field manual. http://www.fao.org/.